-Chính phủ và Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đặt ra mục tiêu cải cách nhanh chóng và triệt để hệ thống tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế khó khăn của năm 2012, liệu mục tiêu này có đạt được?
– Kinh nghiệm của các nước cho thấy thời điểm thích hợp để cải cách hệ thống tài chính ngân hàng là khi tỷ lệ lạm phát kinh tế thấp, tạo dư địa cho chính phủ và các ngân hàng trung ương can thiệp mạnh vào hệ thống này. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang chịu áp lực lạm phát cao và một số yếu tố có thể gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Do thâm hụt ngân sách lớn và nguồn lực công có hạn, nợ công đã ở mức cao và đang tăng nhanh. Chính sách tài khóa và tiền tệ vẫn phải tập trung vào các mục tiêu này.
Nguyễn Văn Ping, Chủ tịch Ngân hàng Quốc gia. Ảnh: Hoàng Hà
Khung pháp lý về sắp xếp doanh nghiệp, tài chính, ngân hàng chưa hoàn thiện, đặc biệt là phá sản, quyền tài sản và nghĩa vụ tài chính. Ngoài ra, nếu tâm lý của một người không vững vàng bị lan truyền không chính xác về các chủ trương, chính sách tái cơ cấu ngân hàng sẽ dễ gây phản ứng thái quá.
Tuy nhiên, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng cũng có lợi thế hơn khi đưa chúng vào kế hoạch tổng thể. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế (bao gồm đầu tư và điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp). Mục đích của việc tổ chức lại là vì lợi ích của đất nước, không vì lợi ích nhóm cục bộ nên có quyết tâm chính trị, xã hội và sự đồng thuận cao.
Các ngân hàng cũng nhận thức được rằng rõ ràng cần phải tổ chức lại để hoạt động an toàn và hiệu quả hơn. Trong vài năm tới, Việt Nam sẽ không bị kìm hãm bởi mục tiêu tăng trưởng kinh tế quá chú trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, nên có thể giảm áp lực tăng trưởng tín dụng, từ đó ổn định và phục hồi kinh tế vĩ mô. . Tái cấu trúc dịch vụ. Vì vậy, tôi cho rằng quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng tuy có khó khăn nhưng hoàn toàn có thể thực hiện được.
– Bank Negara cần có những giải pháp gì để đạt được các mục tiêu trên?
– Giải pháp đầu tiên mà công ty thấy gần đây là khuyến khích hợp nhất, sáp nhập và mua lại ngân hàng. Công việc này được thực hiện một cách tự nguyện, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và các bên liên quan. Đối với các tổ chức tín dụng lành mạnh, đây cũng là cơ hội để tăng nhanh quy mô và khả năng cạnh tranh.
Ngoài ra, Ngân hàng Quốc gia cũng sẽ đánh giá và xếp hạng các tổ chức này. Các tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp thích hợp. Tình hình tài chính của ngân hàng được củng cố nhờ việc xử lý nợ xấu, sáp nhập các doanh nghiệp chủ chốt và rút dần khỏi các lĩnh vực rủi ro kém hiệu quả. – Các ngân hàng cũng sẽ tập trung nhiều vốn hơn cho các lĩnh vực ưu tiên, từng bước chuyển đổi mô hình kinh tế nhằm giảm phụ thuộc vào tín dụng và tăng thu nhập từ dịch vụ … Ngoài việc điều chỉnh cơ cấu tài chính, nguồn vốn này cũng sẽ được sử dụng để phát triển hệ thống ngân hàng. Do đó, an toàn, bền vững và hiệu quả quan trọng hơn việc quản trị, vận hành và cải cách gần với các tiêu chuẩn quốc tế.
– Chính phủ và Ngân hàng Quốc gia Việt Nam sẽ đóng vai trò gì trong quá trình này?
Vai trò rõ ràng nhất của cơ quan quản lý là tiếp tục đổi mới và cải thiện hệ thống văn bản pháp luật, bao gồm các tiêu chuẩn bảo mật và hệ thống kế toán. Ví dụ, các quy định cụ thể đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng (ủy quyền, đóng cửa chi nhánh, phòng giao dịch, v.v.). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ tăng cường, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, phát hiện sớm những bất ổn, sai phạm.
Các biện pháp nêu trên sẽ giúp đảm bảo quá trình tổ chức lại được thực hiện suôn sẻ và an toàn, do đó loại bỏ rủi ro khi tổ chức lại. phá vỡ. Nếu được triển khai đồng thời đầy đủ, đến năm 2015, hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam sẽ có bước chuyển mình lành mạnh về tài chính và hoạt động. Nó sẽ làm giảm số lượng các tổ chức tín dụng nhỏ và yếu kém thay vào đó là một số ngân hàng lớn và cạnh tranh, đặc biệt là tăng cường sự thống trị của các ngân hàng thương mại trong nước Có nước trong toàn bộ hệ thống.
– Giải pháp mà Thống đốc đưa ra là khá hợp lý. Tuy nhiên, cải cách vẫn có những chi phí kinh tế. Vấn đề này sẽ được giải quyết như thế nào? -Trong quá trình tái cơ cấu, bên cạnh sự hỗ trợ thích đáng từ Chính phủ và các ngân hàng quốc gia, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng yếu kém, các ngân hàng thương mại đại chúng và ngân hàng cổ phần lành mạnh là lực lượng chính. Hỗ trợ này bao gồm các cơ chế và chính sách cVà tài nguyên.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chính phủ và Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đang “trợ cấp” toàn bộ việc tái tổ chức. Tổn thất và chi phí liên quan đến lạm dụng phải được giữ ở mức tối thiểu và được phân bổ cho các bên (quốc gia, chủ sở hữu, nhà đầu tư và người gửi tiền) theo luật và quy định. hợp pháp. Trong số đó, chủ sở hữu ngân hàng phải chịu trách nhiệm đầu tiên về những tổn thất phát sinh. Vì vậy, chúng ta phải bảo vệ tốt hơn lợi ích quốc gia và tài sản của người dân.
—
— Tất cả những điểm trên, theo quan điểm của Thống đốc, đâu là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của quá trình tái cơ cấu ngân hàng?
– Trước tình hình Việt Nam hiện nay, yếu tố then chốt quyết định kết quả tái cơ cấu ngân hàng là sự lựa chọn khôn ngoan trong việc triển khai kế hoạch, huy động sự tham gia của khu vực tư nhân và duy trì niềm tin của người dân. Tất nhiên, sự lãnh đạo và kiểm soát của chính phủ phải được đảm bảo trong toàn bộ cấu trúc.