Theo số liệu của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, người dùng Việt Nam hiện có hơn 63 thẻ ghi nợ quốc gia, gấp 17 lần con số 3,6 triệu thẻ ghi nợ vào cuối năm 2006. Khi lượng khách hàng tăng lên, các ngân hàng sẽ thu phí nhiều hơn. Tích cực hơn trước.
Hiện nay, mỗi người thường có ít nhất một thẻ ghi nợ nội địa ATM, và nhiều người cũng có thể sử dụng và thường xuyên sử dụng thẻ tín dụng (Visa, Master Card hoặc JCB, American Express …). Theo thống kê của VnExpress, ước tính mỗi khách hàng sẽ phải chịu khoảng 20-25 loại phí dịch vụ cơ bản từ ngân hàng. Ngoại trừ phí mở tài khoản, thẻ không bao giờ tính phí ngân hàng, còn hầu hết các dịch vụ khác đều bị tính phí.
Mọi người phải trả phí cơ bản trong vòng một tháng và một năm. — Ví dụ, đối với thẻ ATM thông thường, chủ thẻ sẽ trả phí duy trì tài khoản (nếu số dư thấp hơn mức quy định), phí quản lý tài khoản, phí thường niên. Ngoài ra, còn có phí giao dịch ATM (rút tiền, chuyển khoản, in hóa đơn, sao kê …). Ngân hàng Quốc gia vẫn ước tính rằng số lượng ngân hàng thu phí ATM trực tuyến là rất ít (chỉ khoảng 10/46), nhưng trên thực tế, họ là những ngân hàng nắm giữ thị phần thẻ lớn nhất cả nước. Ngoài ra, mỗi chủ thẻ còn phải trả các khoản phí giao dịch cơ bản khác, như phí dịch vụ ngân hàng trực tuyến, SMS banking … – Cũng giống như thẻ tín dụng, người dùng sẽ phải đối mặt với “rừng” thẻ. Các loại phí khác, từ phí phát hành đến phí thường niên, phí rút tiền, phí trả chậm, phí yêu cầu bồi thường …- chưa kể, cứ giao dịch gửi rút tiền, chuyển khoản ra quầy cũng phải nạp. Theo chính sách của từng ngân hàng, chi phí giao dịch hàng năm đối với chủ thẻ từ hàng trăm nghìn đến hàng triệu USD.
Các ngân hàng bắt đầu tính phí dịch vụ nhiều năm sau đó. Chơi miễn phí để tăng số lượng thẻ. Ảnh: Thanh Lan .
Khoảng chục năm trước, ở Việt Nam không có nhiều người có thẻ ngân hàng, các ngân hàng đổ xô phát hành thẻ miễn phí, dễ dàng phát hành thẻ VIP … Chỉ cần lượng khách tăng thì dù lượng khách “ảo” sẽ tăng lên. Tăng, nhưng vẫn phát triển nhanh chóng. Tất nhiên, không đơn vị nào thu phí dịch vụ (trừ ngân hàng nước ngoài), phí duy trì tài khoản, phí ATM trực tuyến trên ATM ngoại mạng, rút tiền và gửi tiền.
Chỉ có thẻ ATM và thẻ tín dụng cũng rất phổ biến ở Việt Nam với dân số trẻ. Đầu năm 2007, chỉ có 17 ngân hàng triển khai phương thức phát hành và thanh toán thẻ tín dụng, đến nay đã có hơn 40 ngân hàng hầu hết sử dụng loại thẻ này. Do đó, khi hầu hết mọi người không còn biết đến khái niệm thẻ ngân hàng nữa thì việc các ngân hàng quay trở lại chạy theo kinh tế học “bữa trưa miễn phí” là điều dễ hiểu. Người phụ trách một ngân hàng có thế mạnh về bán lẻ cho biết, các loại phí này được ngân hàng công khai, tính toán kỹ lưỡng để không quá cao so với người Việt Nam. Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ của hệ thống thực sự chưa cao khiến nhiều khách hàng băn khoăn. Theo khảo sát mới nhất của Ernst & Young (EY), do chất lượng dịch vụ kém, 50% khách hàng đã chia tay ngân hàng trong 12 tháng qua và 20-30% người được hỏi đã mở hoặc đóng tài khoản ngân hàng. Do vấn đề lãi suất và phí – một chuyên gia tài chính thừa nhận rằng ngân hàng cũng là doanh nghiệp, họ cần nguồn thu nhập để chi trả chi phí vận hành và dịch vụ, và “nhiều năm rồi không thể miễn phí mãi mãi.” Việc họ thu phí dịch vụ là Dễ hiểu và phù hợp với xu hướng chung ở mọi quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, nếu thu phí mà nhân viên giao dịch không nhiệt tình thì máy ATM vẫn hoạt động. Điều sai trái là hệ thống truyền trực tuyến mất hàng giờ đồng hồ đến điểm nghẽn … khách hàng vẫn không thể hài lòng và ngưỡng mộ “, anh nói