Theo nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2015, hơn ba năm sau khi thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hôm nay (1/11), Quốc hội đã thảo luận về quá trình giám sát kết quả thông qua phòng hội thảo cả ngày, tập trung vào Đầu tư công, doanh nghiệp công và hệ thống ngân hàng là ba khía cạnh.
Ủy ban Kinh tế đại diện cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Nguyễn Văn Giàu). Ngân hàng Việt Nam là một khu vực nhạy cảm với thị trường và xã hội, nhưng trong 15 năm qua, Việt Nam đã thực hiện ba lần tổ chức lại khu vực: Đầu tiên là sau cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á từ năm 1998 đến 2003, giai đoạn gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới từ năm 2005 đến 2008 và giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 2011 đến 2015.
Nguyễn Văn Giàu, Chủ tịch Ủy ban Kinh tế, nhận xét về việc tái cấu trúc ngày càng tăng của ngân hàng. Tài sản phức tạp .
Mỗi lần, hệ thống ngân hàng đều trải qua những thay đổi lớn. Lần đầu tiên, 14 ngân hàng thương mại được tổ chức lại trên toàn quốc và tỷ lệ nợ xấu tăng từ 13% năm 1996-1998 lên 5% năm 2003. Giai đoạn thứ hai là ngân hàng chuyển đổi. Cổ phiếu thương mại từ nông thôn đến thành thị, với 12 đơn vị, là hoàn toàn mới. Năm 2010, quy mô của toàn bộ hệ thống tài sản tăng gấp 10 lần so với năm 2001, lợi nhuận thông thường tăng hơn 20 lần trong mười năm và tỷ lệ nợ là thứ ba từ năm 2012 đến nay. Quá trình tổ chức lại được coi là “phức tạp hơn.” Báo cáo chỉ ra: “Hầu hết các ngân hàng trong sự sắp xếp và cải chính này cũng là những ngân hàng đã trải qua hai lần tái tổ chức trước đó. Trên thực tế, việc sắp xếp lại này tương tự như lần đầu tiên, nhưng tài sản lớn hơn và phức tạp hơn.” Tuy nhiên, quá trình tái cấu trúc cũng tạo ra kết quả. Theo đại diện Cao Sĩ Kiếm (Thái Lan), 8/9 ngân hàng yếu kém đã bị xử lý, hệ thống tránh sự cố và bắt đầu hoạt động an toàn hơn. Chính phủ cũng đã bày tỏ thái độ rõ ràng hơn đối với các tổ chức tài chính phi ngân hàng và loại bỏ các lĩnh vực gây rủi ro cho nền kinh tế.
Từ năm 2012 đến tháng 8 năm 2014, toàn bộ hệ thống đã xử lý 21,4 tỷ đồng nợ xấu. Các khoản nợ xấu (PNP) đã giảm từ 4,08% vào cuối năm 2012 xuống còn 3,9% vào tháng 9 năm 2014.
Tuy nhiên, những người tham gia cho rằng quá trình tái cấu trúc ngành ngân hàng vẫn đang tiếp tục. Nhiều lỗ hổng, như khả năng cạnh tranh và khả năng quản lý của nhiều tổ chức tín dụng, đã không được cải thiện đáng kể, đặc biệt là việc áp dụng các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, vẫn còn nhiều giải pháp tùy thuộc vào tình hình, đặc biệt là do các ràng buộc về thể chế và mô hình, quản lý nợ xấu chậm
“Cơ sở pháp lý cho các giao dịch nợ xấu là không rõ ràng và thiếu cơ chế và nguồn lực để xử lý nợ xấu. Nợ mặc dù các bên liên quan thiếu động lực để đẩy nhanh quá trình quản lý nợ xấu, bản thân công ty quản lý tài sản tín dụng (VAMC) không có đủ nguồn lực để Mua theo cách này “, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nói. Đại diện Cao Sijian cũng đồng ý rằng khi hệ thống pháp luật phát triển chậm, nguồn vốn thiếu và thiếu sự hỗ trợ thực địa, nợ xấu sẽ luôn bị “dừng lại”.
Ngoài ra, mặc dù khả năng quản lý của các tổ chức tín dụng còn yếu, nhưng đầu tư chéo vào hệ thống vẫn không rõ ràng. Vốn đầu tư của một số ngân hàng cổ phần không phản ánh đúng bản chất của nó, và có rủi ro về hoạt động kiểm soát và thao túng. Kinh doanh ngân hàng.
Đại diện Trịnh Ngọc Phương (Tây Ninh) cũng chỉ ra rằng hình sự hóa nhiều vấn đề trong ngành ngân hàng cũng có thể có mặt tiêu cực, ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư. Ông nói: “Hình sự hóa đã làm giảm khả năng thu hồi tài sản, tăng chi phí tái cơ cấu và tăng chi tiêu ngân hàng nhà nước để hỗ trợ thanh khoản.”
Kể từ đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khuyến nghị rằng tín dụng nên tiếp tục được xử lý Các tổ chức còn yếu, và tiếp tục thực hiện các biện pháp giảm nợ xấu, đến cuối năm 2015, tỷ lệ tổng dư nợ sẽ dưới 3%. Nghiên cứu và cải thiện cơ chế hoạt động của VAMC, thị trường đàm phán nợ và cải thiện việc kiểm tra và rà soát các tổ chức tín dụng, giám sát chặt chẽ, về cơ bản là sở hữu chéo và đầu tư chéo, để nhanh chóng xử lý các hành vi xâm phạm và ngăn ngừa rủi ro …
Trong báo cáo tiếp theo Tại Trung Quốc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xác định tỷ lệ đóng góp nông nghiệp. Không thay đổi nhiều. Trong năm 2012 và 2013, nông nghiệp không thể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng như những năm trước. Gần đây, sự tăng trưởng của lĩnh vực này đã bắt đầu chậm lại và hiệu quả sản xuất nông nghiệp đã giảm. Tốc độ tăng trưởng tiếp tục giảm từ 4,5% trong năm 1995-2000 xuống 2,64% vào năm 2013.
Về tái cấu trúc ngành, cơ quan này tuyên bố:Các ngành công nghiệp hỗ trợ CNTT và điện tử tập trung ở các công ty FDI, chiếm 90% tổng vốn đầu tư. Các doanh nghiệp nhà nước chiếm hai phần ba ngành sản xuất và sử dụng 60% lực lượng lao động, nhưng chỉ dưới 10% vốn đầu tư. – Liên quan đến đầu tư công, báo cáo đánh giá trong giai đoạn 2011-2013, tỷ lệ vốn đầu tư công trong tổng vốn đầu tư xã hội có xu hướng tăng, và cả tỷ lệ và số tiền tuyệt đối của nó đều tăng. Việc phân bổ vốn cho các dự án quan trọng và cấp bách trong ngân sách quốc gia cũng được nhắm mục tiêu nhiều hơn. Cụ thể hơn, trong giai đoạn 2011-2013, tỷ trọng đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách giảm mạnh so với các năm trước, giá trị trung bình trong giai đoạn 2011-2013 là 19,55% mỗi năm (nếu bao gồm dự báo năm 2014, Đó là 18,73%), trong khi trung bình trong giai đoạn 2006-010 là 28%. — Phương Linh-Ngọc Tuyền