. Lat được trộn với dâu tây Đà Lạt và phục vụ cho thị trường. Tất nhiên, kinh doanh lừa đảo này chỉ liên quan đến một vài lính đánh thuê. Khi những người trồng dâu tây thực sự hoặc hiệp hội hợp tác công nhận hợp tác xã sản phẩm dâu tây cho nông dân, khi thương hiệu phá hủy thương hiệu dâu tây Đà Lạt mà nhiều người đang làm việc, những hợp tác xã này rất bức xúc.
– Tôi chợt nhớ đến câu chuyện về làng Kawakami ở quận Nansaka, tỉnh Nagano, phía tây Tokyo, Nhật Bản. Ngôi làng này được gọi là “Ngôi làng kỳ diệu” của những cư dân của mặt trời buổi sáng. . Từ Kawakami, ban đầu từ một trong những ngôi làng nghèo nhất Nhật Bản, nhưng do sự đồng thuận của sản xuất, dân làng đã biến nó thành ngôi làng giàu nhất Nhật Bản. Thu nhập hàng năm của làng Kawakami là 250.000 đô la Mỹ.
Từ thập niên 1960 đến 1970, Kawakami là một trong những ngôi làng nghèo nhất Nhật Bản. Mọi người chủ yếu làm nông nghiệp và trồng lúa, nhưng thực phẩm vẫn đang được sản xuất. Nuôi gia đình là không đủ. Vùng đất này rất khó khăn. Chỉ có bốn tháng trong một năm. Tám tháng còn lại là băng giá và nhiệt độ đôi khi giảm xuống âm 20 độ. C .
Năm 1980, trưởng làng Kawakami nhận ra rằng vùng đất khô cằn và khí hậu lạnh trong làng rất thích hợp để trồng rau diếp, vì vậy ông đã thúc giục dân làng cùng nhau phát triển để cung cấp cho thị trường. Các quy trình rất nghiêm ngặt đã được thiết lập, đầu tiên là thu thập các mẫu đất và nước từ mỗi lô nông dân. Sau đó là kỹ thuật canh tác, hệ thống tưới tiêu, phân bón và kho sau thu hoạch. Hai mươi năm sau, làng Kawakami đã phát triển một quy trình trồng rau diếp theo tiêu chuẩn riêng của mình (chứ không phải theo tiêu chuẩn thế giới), nhưng để đảm bảo rằng các sản phẩm của nông dân hoàn toàn đồng nhất. — Điều đáng chú ý là giá của salad quốc gia cao hơn năm lần so với các sản phẩm tương tự ở Nhật Bản, nhưng người tiêu dùng vẫn chấp nhận nó. Kỷ luật sản xuất của dân làng Kawakami rất cao. Nếu một nông dân mắc lỗi, anh ta sẽ tạm thời bị cấm canh tác, và các sản phẩm xấu sẽ bị phá hủy trong làng và không được phép bán. Bất kỳ hình dạng. Có một kênh truyền hình trong làng, được sử dụng cho thông tin thị trường, phương pháp canh tác và kế hoạch trồng trọt. Tất cả các sản phẩm salad ở làng Kawakami được thu hoạch vào một thời gian cố định, từ 3 giờ sáng đến 7 giờ sáng, sau đó đặt Vào xà lách trong phòng lạnh tương đương với thời gian thu hoạch để đảm bảo chất lượng sản phẩm đồng đều. Nông dân thu hoạch rau diếp ngoài khung thời gian này sẽ không được chấp nhận và các sản phẩm sẽ bị phá hủy. Thành công của dân làng ở Kawakami đã hạn chế những người trẻ tuổi trong làng và khiến họ từ bỏ cuộc sống ở các thành phố lớn và trở về quê hương để tham gia vào nghề trồng salad. -Một giấc mơ xa vời
Từ câu chuyện về rau diếp ở một ngôi làng “ma thuật” Nhật Bản, tôi nghĩ đến dâu tây từ những người nông dân ở Đà Lạt, Việt Nam. Vào cuối thế kỷ 19, người Pháp đã giới thiệu Tây đến Đà Lạt trong một trang trại chuyên thử nghiệm cây trồng. Trang trại này hiện đã được thành lập tại Dan Kia-Suoi Vang. Có, vùng đất này thậm chí chưa thiết lập một hệ thống quản lý hành chính. Vào cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940, Đà Lạt đã thành lập những ngôi làng đầu tiên của Việt Nam, như Hà Đông. Nghệ Tinh … Người Pháp chuyển giao kỹ thuật trồng dâu tây, hoa hồng và một số loại rau để cung cấp không gian cho người nước ngoài Pháp làm việc và sinh sống tại Việt Nam.
Gian lận en Đà Lạt đã được duy trì kể từ đó, nhưng nó không phải lúc nào cũng quá lớn so với tổng quỹ cho đất nông nghiệp ở Đà Lạt. Bởi vì nó là một loại cây ăn quả cao quý, trong thời đại tập trung kinh tế, mọi người chỉ có thể chơi và hưởng trợ cấp, và diện tích trồng dâu tây đã giảm vì nó không phải là thực phẩm hay lương thực chính. – Trong nhiều thập kỷ, thành phố Đà Lạt đã phát triển dâu tây, nhưng diện tích hiện tại chỉ khoảng 130 ha và sản lượng hàng năm khoảng 1.500 tấn.
Mọi người đã đề cập rằng Việt Nam từ lâu đã tham gia dâu tây Thành phố Đà Lạt chưa mở cửa kinh tế và ít giao dịch với Trung Quốc và các nước khác, vì vậy nước này không nhập khẩu dâu tây.mật khẩu. Hiện tại, dâu tây cũng được trồng ở các vùng của Sabah hoặc Tây Nguyên, nhưng diện tích nhỏ và năng suất không cao, vì loại cây này đòi hỏi nhiều yếu tố tự nhiên và mất thời gian để sản xuất các sản phẩm chất lượng cao. sản phẩm chất lượng cao. Do đó, khi nói đến dâu tây, người tiêu dùng vẫn nhắc đến Đà Lạt.
Đó là một loại trái cây dễ hỏng, khó vận chuyển. Do đó, với ngành du lịch nổi tiếng ở Đà Lạt, dâu tây phát triển mạnh mẽ. Ngoài các dịch vụ tại chỗ, khách du lịch cũng có thể mua và mang về nhà, hoặc do thời gian vận chuyển ngắn, tuyến đường nối Đà Lạt cũng sẽ giúp dâu tây phát triển hơn nữa. Thương hiệu Đà Lạt. Hiện tại, có hàng chục trang trại dâu tây ở Đà Lạt, kết hợp tham quan và mua nông sản. Dâu tây là một phần của nhóm sản phẩm nông nghiệp “Đà Lạt kết tinh một cách kỳ diệu trong đất chất lượng cao”. Do thiết lập một bộ tiêu chuẩn nhận dạng và truy xuất nguồn gốc, dâu tây Đà Lạt được nhiều khách du lịch biết đến và mua trong suốt hành trình về nước.
>> Việc sản xuất nông nghiệp là do ‘đồng thau và vàng’ ‘- — Là một người sống ở Đà Lạt trong một thời gian dài, tôi nghĩ rằng về lâu dài, để duy trì thương hiệu dâu tây Đà Lạt, người dân địa phương và chính quyền địa phương phải thiết lập các rào cản nghiêm ngặt để nhập khẩu dâu tây từ bên ngoài và tiếp tục cải thiện quy trình sản xuất , Thiết kế sản phẩm, bao bì và các cam kết chất lượng cụ thể cần xử lý nghiêm với dâu tây Đà Lạt giả theo tình hình. Dâu tây từ bất kỳ quốc gia / khu vực nào khác ở Việt Nam được nhập khẩu thông qua các kênh chính thức và ở các giai đoạn khác nhau. Kiểm tra an ninh, giá cả hoặc giá trị thực của sản phẩm phụ thuộc vào thương hiệu và chất lượng. Do thực địa, mặc dù có sự khác biệt về chất lượng và hương vị, nhiều dâu tây Trung Quốc nhập khẩu vào Đà Lạt trong những ngày gần đây có thiết kế tốt hơn dâu tây Đà Lạt. Một yếu tố quan trọng là loại dâu này rất dễ bị thối và dâu tây Đà Lạt sẽ chỉ rời khỏi môi trường tự nhiên trong khoảng hai ngày, và không thể được lưu trữ bình thường trong hơn một tuần.
Bài viết của Quốc Dũng